Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

CỎ CHÂN NGỖNG

Tên khoa học: Anemone

Họ: Họ Mao lương hay Hoàng liên (Ranunculaceae)

Tên tiếng Anh: Anemone

Tên tiếng Việt: Cỏ chân ngỗng, thu mẫu đơn, hoa hải quỳ


Thông điệp: Tình yêu lụi tàn và hy vọng tiêu tan

Album: https://www.facebook.com/media/set/?set=a.374504972739513.1073741847.244315789091766&type=1


     Hoa của cây cỏ chân ngỗng là một loài hoa tuyệt đẹp với màu sắc vô cùng tươi tắn. Hoa Cỏ chân ngỗng được trồng rất nhiều ở châu Âu và thường nở hoa vào mùa Xuân. 


     Anemone là cây lâu năm có lá dài với lá cành mà có thể đứng hoặc nằm phủ phục. Lá đơn giản hoặc chia thùy, chia tay, hoặc phiến lá không phân chia. Các mép hay toàn bộ lá có răng.



     Hoa có 4-27 lá đài đơn lẻ, trong cụm từ 2-9 hoa. Hoa có màu sắc rất đa dạng trong đó chủ yếu gồm 5 màu: đỏ, hồng, trắng, tím, xanh da trời. Các nhụy hoa có một noãn.






     Nhiều chủ nhà vườn yêu thích trồng loại hoa này vì chúng có thời gian ra hoa kéo dài từ đầu mùa xuân đến mùa thu. Trong điều kiện làm vườn có ba nhóm chính: 

  1. Loài hoa mùa xuân được tìm thấy trong rừng và đồng cỏ núi cao, thường củ hoặc rễ củ. Ví dụ: A. nemorosa , A. blanda 
  2. Loài mùa xuân và mùa hè hoa là loài từ vùng khô nóng, có rễ củ. Ví dụ: A. coronaria 
  3. Loài mùa hè và mùa thu hoa loài có rễ xơ, trong đó phát triển mạnh trong ẩm bóng râm lốm đốm;. Ví dụ: A. hupehensis. 


     Trong các nhóm cuối mùa xuân, A. blanda là một trong những phổ biến nhất, với màu sắc hỗn hợp sặc sỡ mặc dù màu tím là chủ yếu.Các chi chứa nhiều loại cây xuân hoa khác, trong đó A. hortensis và A.fulgens có lá ít chia và hoa hồng tím hoặc đỏ tươi rực rỡ. Chúng đòi hỏi điều kiện chăm sóc tương tự.


  

     Trong số các loại cỏ chân ngỗng mùa hè nổi tiếng nhất là A. coronaria , thường được gọi là hải quỳ thuốc phiện, cây củ-rễ, lá chia nhiều thùy, hoa lớn và sặc sỡ trên thân cây cao từ 15-20 cm; những bông hoa có màu sắc khác nhau, nhưng chủ yếu là màu đỏ tươi, đỏ thẫm, xanh, tím, và màu trắng. Ngoài ra còn có hai giống hoa, trong đó các nhị hoa ở trung tâm được thay thế bởi một chùm hẹp của những cánh hoa.



     Anemone hupehensis , và màu trắng của nó giống 'Honorine Joubert', nằm ​​trong số tốt nhất những loài ra hoa mùa thu; chúng phát triển tốt trên đất ánh sáng, và đạt 60-100 cm chiều cao, nở liên tục trong vài tuần. Một nhóm các loài lùn, đại diện bởi các gốc Anh A. nemorosa và A. apennina , nằm ​​trong số những đẹp nhất của mùa xuân hoa trồng trong rừng và những nơi râm.



      Lúc tốt nhất để thu hoạch hoa là cắt vào sáng sớm trong khi nó vẫn còn bên ngoài lạnh trong khi hoa vẫn còn kép cánh. Để mở ra hoa vào nước nhiệt độ phòng và tránh ánh nắng mặt trời trực tiếp. Cỏ chân ngỗng có thể bền được 9 ngày trong bình khi được chăm sóc đúng cách.








CHUYỆN CỦA HOA


     Tên hoa tiếng Anh là Anemone. Theo Thần thoại Hy Lạp, Anemone là một tiên nữ rất được thần của những ngọn gió Tây Zephyr sủng ái. Nàng có sắc đẹp mê hồn khiến Nữ chúa của các loài hoa còn phải ghen ghét. Và bà ta đã biến nàng thành một loại hoa tuyệt đẹp luôn luôn nở mỗi khi xuân về.


     Từ đó, thần Gió Zephyr đã dần quên và bỏ rơi người đẹp bất hạnh này.


Trong khi đó thần của những ngọn gió Bấc là Boreas, người trước đây không chiếm nổi tình yêu của nàng thì nay thả sức vuốt ve, suồng sã. Đó là lý do khiến những bông hoa Cỏ chân ngỗng chỉ cần trở gió lạnh là nhanh chóng nhợt nhạt héo tàn.





     Một thần thoại khác kể rằng: Venus yêu Adonis, con trai của vua đảo Chypre. Vì chàng, Venus quên cả núi Olympe, quên cả sắc đẹp của mình. Dưới trời nắng như thiêu hay trong mưa to gió lớn, nàng đều đi theo Adonis để săn hươu nai. ARES, tình nhân của nàng, biết chuyện, ghen tức, hóa thành một con lợn rừng, nhân lúc vắng mặt Venus đã đâm bổ vào Adonis. Chàng chết. Venus đau khổ vô cùng, nàng vào rừng tìm xác Adonis. Nàng khóc, những cánh hoa Cỏ chân ngỗng mọc lên nơi nước mắt Venus nhỏ trên máu người yêu


    Vì gắn liền sự tan vỡ đau thương, người ta coi hoa cỏ chân ngỗng là biểu tượng của "Tình yêu lụi tàn và Hy vọng tiêu tan".


Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015

TỬ ĐẰNG

TỬ ĐẰNG

Tên khoa học: Wisteria sinensis

Họ: Họ Đậu (Fabaceae)

Tên tiếng Việt: Dây sắn tía, hoa chu đằng, hoa đằng la, hoa tử đằng

Tên tiếng Pháp: Glycine, Glycine de Chine


Tên tiếng Nhật: Fuji

Thông điệp: Tình yêu đồng loạt nở hoa

Album: https://www.facebook.com/media/set/?set=a.372801532909857.1073741846.244315789091766&type=3&uploaded=22

    Thân của Tử đằng là chất gỗ cỡ lớn, thô và khô, cây có sức uốn, leo mạnh, cành lá rậm có thể làm dàn lớn che nắng.
    Thân leo của cây tử đằng leo lên bằng cách quấn thân của nó quanh bất kỳ một vật đở nào theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược lại. Chúng có thể leo cao đến 20m khỏi mặt đất và lan rộng đến 10m theo chiều ngang. Dây leo tử đằng lớn nhất đang sinh sống ở vùng Sierra Madre, California, Mỹ, lan rộng đến 4000 m2 và nặng 250 tấn. Nó được trồng vào năm 1894 bằng giống tử đằng Trung Quốc
.
    
     Lá cây tử đằng mọc đối xứng, dài từ 15cm đếm 35cm, mọc hình lông chim với 9 đến 19 lá. 
    Hoa tử đằng có rất nhiều hoa nhỏ tập trung trong một chùm to, rủ xuống dài từ 10cm đến 80cm rất giống hoa muồng hoàng yến nhưng không có màu vàng mà có màu tím, hồng hoặc trắng. Một số loài phân bố ở châu Á trổ hoa vào mùa xuân trước khi lá mọc ra. Một số loài ở Mỹ ra hoa vào giữa tháng năm đến cuối mùa hè. Hoa tử đằng có mùi thơm, đặc biệt là giống hoa Trung Quốc. Hạt của nó được tạo thành dây và cũng có chất độc tương tự như muồng hoàng yến.






    Ý nghĩa hoa tử đằng:


    Tặng hoa Glycine theo người Trung hoa là ngụ ý tôn vinh và quý mến tình bạn của đôi bên. Theo người phương Tây cũng thế, nó còn bày tỏ lòng yêu thích, tương đồng ngưỡng mộ giữa người tặng và người nhận. Riêng cho việc bày tỏ tình yêu và mong chờ sự đáp nhận thì bạn nên dùng Glycine màu tím vì ý nghĩa của hoa lúc ấy là "Tôi chờ đợi sự đáp ứng của em!". Glycine màu trắng gốc Nhật chỉ biểu tượng cho tình bạn mà thôi! Tuy là một loại hoa ngọt dịu, mềm mại nhưng bản thân chính yếu, đó là một tình yêu khá đòi hỏi và kiên trì. Hoa tử đằng rất được yêu chuộng. Nếu như ở phương Tây, hoa hồng là biểu tượng của tình yêu thì ở xứ sở Phù tang thì hoa tử đằng lại là tượng trưng cho tình yêu bất diệt. Chính vì thế mà ở công viên hoa Ashikaga, người ta đã trồng hẳn một vườn hoa Wisteria rộng đến 8,2 ha đất với nhiều cây có tuổi thọ hơn 100 năm.


     Nhiều người tin rằng, hoa tử đằng là một biểu tượng quan trọng trong Phật giáo bởi nó biểu hiện cho sự cầu nguyện và  vươn tới những điều thần thánh. Những phép ẩn dụ này chủ yếu lấy cảm hứng từ hình dáng xoắn ốc và cách phát triển - hướng lên trời cao.


THƠ VỀ HOA




Lý Bạch có bài thơ "Tử đằng thụ":


Tử đằng quải vân mộc
Hoa mạn nghi dương xuân

              Mật diệp ẩn ca điểu

Hương phong lưu mỹ nhân


(tạm dịch)
Tử đằng treo chót vót
Lớp lớp tưởng đương xuân
Cánh rậm che chim hót
Hương bay níu mỹ nhân

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

DÃ YÊN THẢO

DÃ YÊN THẢO

Tên khoa học: Petunia
   (là một chi thực vật)

Họ: Solanaceae

Tên tiếng Việt: Dạ (Dã) yên thảo.


Thông điệp: Hoa Dã yên thảo mang nhiều ý nghĩa khác nhau như: Bạn luôn ở trong trái tim tôi, tôi đồng lòng với bạn, tôi luôn cảm thấy ấm áp, sự bình tĩnh và tình yêu hư ảo.




Nguồn gốc: Dã yên thảo là cây bản địa của các nước có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới ở khu vực Nam Mỹ.


   Dã yên thảo là cây thân thảo, thường được trồng trong chậu để trang trí cho các khu vườn và là cây hàng năm. Phần lớn Dã yên thảo chúng ta trồng ngày nay là Dã yên thảo đã được lai tạo từ Petunia axillaris, Pentunia violacea và Pentunia inflata.


  
    Dã yên thảo được chia thành 2 kiểu cây:
        + Dã yên thảo kép: cây thân leo, hoa lớn với nhiều cánh (grandiflora), đường kính của hoa có thể lên tới 13cm.



      + Dã yên thảo đơn: cây bụi, có rất nhiều hoa nhưng hoa chỉ có một lớp cánh (mulitflora), đường kính của hoa khoảng 5-7,5cm, dễ trồng và ít bị ảnh hưởng bởi sâu bọ.


      + Dã yên thảo khảm: cây thân leo, hình dạng giống như dã yên thảo kép, cánh hoa có 2 màu.


     Hoa dã yên thảo gốc có hình phễu, nhưng các loại dã yên thảo lai tạo có hình dáng đa dạng và phong phú hơn nhiều. Cánh có thể đơn lớp hoặc đa lớp, dạng gợn sóng. Hoa có thể có sọc, đốm hoặc viền quanh cánh với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ tía, màu hoa cà, màu oải hương, hồng, đỏ, trắng, vàng. Khi chạm vào lá và cuống hoa thấy hơi dính và có mùi thơm rất khác biệt. 


    Người ta thường trồng dã yên thảo làm viền quanh cho khu vườn hoặc trồng thành từng luống. Loại dã yên thảo cánh kép có thể trồng trong các chậu để trang trí, chậu hoa treo trong nhà, trong vườn vì là thân leo, sẽ rủ xuống rất đẹp.