Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

DÂY TÓC TIÊN

DÂY TÓC TIÊN

Tên khoa học: Ipomoea quamoclit

Họ: Bìm bìm (Convolvulaceae)


Tên tiếng Anh: cypress vine, cypressvine morning glory, cardinal creeper, cardinal vine, star glory hay hummingbird vine


Tên tiếng Việt: Tóc tiên, hoa sao, dương leo


Nguồn gốc: Vùng nhiệt đới từ phía bắc Nam Mỹ phía bắc đến Mexico

Nó là một loài cây thân thảo hàng năm hoặc lâu năm, dây leo phát triển đến 1-3 m cao. Các lá dài 2-9 cm phân thùy sâu (gần như lông chim), với 9-19 thùy trên mỗi bên của lá. 


Các hoa dài 3-4 cm và 2 cm đường kính, hình loa kèn với năm cánh, và có các màu cơ bản là màu đỏ, màu hồng hoặc màu trắng. Nó hoa vào mùa hè và mùa thu.

ALLIUM MOLY

ALLIUM MOLY

Tên khoa học: Allium moly

Họ: Amaryllidaceae

Tên tiếng Anh: golden garlic and lily leek

Tên tiếng Việt: tỏi vàng, tỏi tây lily

Nguồn gốc: Chủ yếu được tìm thấy ở Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp







Allium moly là loại cây lâu năm và đạt đến tầm cao từ 15 đến 25 cm.

Chúng là loài rụng lá với các lá dài, gân lá song song với nhau. Các lá có kích thước khoảng 10 - 20 cm.

Hoa phát triển thành cụm gồm nhiều bông hoa màu vàng có hình ngôi sao 6 cánh. Mùa ra hoa từ tháng 5 đến tháng 6.

Allium moly được dùng làm cảnh và dược liệu.





Thảo mộc này đã xuất hiện trong những câu chuyện Hy Lạp của Odyssey ở thế giới Muggle, nơi nó được nhân vật chính, Odysseus, sử dụng để giúp chống lại nữ phù thủy hắc ám.



Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

TAI GẤU

TAI GẤU

Tên khoa học: Primula auricula

Họ: Primulaceae

Tên tiếng Anh: auricula, mountain cowslip hay bear's ear

Tên tiếng Việt: tai gấu

Nguồn gốc: trên các dãy núi đá cao ở trung tâm châu Âu, bao gồm cả phía tây dãy Alps , Jura, Vosges, Rừng đen và dãy núi Tatra

Primula auricula là một loài cây thường xanh lâu năm sống ở những vùng núi cao từ 2.000m trở lên với điều kiện thoát nước phải tốt, do đó chúng thường phát triển trên núi đá. 


Nó có kích thước trung bình đạt 20cm chiều cao và lớn khoảng 25 cm bề rộng. 
Lá cây màu xanh nhạt, mọng nước giống với lá bỏng. Tên gọi tai gấu (bear's ear) bắt nguồn từ hình dạng của lá. 


Hoa mọc thành cụm trên một cuống dài, có màu sắc sặc sỡ. Có lúc trên một bông hoa có rất nhiều màu phối hợp rất hài hài hòa. Một điều đặc biệt là hoa có nhiều màu sắc nhưng điểm chung là chứa những nhị vàng óng.

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

CÚC VẠN DIỆP

CÚC VẠN DIỆP


Tên khoa học: Achillea millefolium
Họ: Cúc (Asteraceae)

Tên tiếng Anh: Yarrow

Tên tiếng Việt: cỏ thi, cúc vạn diệp

Nguồn gốc: khu vực Bắc bán cầu ở châu Á , châu Âu và Bắc Mỹ




Cỏ thi là một loài cây thân thảo lâu năm có chiều cao thân từ 0,2-1 mét. Lá dài được chia nhỏ nhiều lần, phân bố đều dọc theo thân cây, với những chiếc lá gần giữa và dưới của thân cây là lớn nhất. Các lá có số lượng lông khác nhau (pubescence). Các lá dài 5-20 cm, sắp xếp thành vòng xoắn trên thân.



Mỗi cụm hoa có nhiều nhánh nhỏ. Mỗi nhánh có từ 15 đến 40 hoa có màu trắng sang hồng. Hoa có mùi hương ngọt ngào mạnh mẽ, tương tự như hoa cúc.



Tên chi Achillea có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Hy Lạp, Achilles , người báo cáo thực hiện nó với quân đội của mình để điều trị vết thương chiến. Ngày xua, nó được biết đén với tên loài dược thảo dùng tròn quân đội, được sử dụng cầm máu những vết thương trong chiến tranh. Từ lâu, nó được xem như là một loại thuốc bổ tăng lực có vị đắng. Cỏ thi giúp hồi phục sau khi bị bệnh cảm lạnh và có ích cho bệnh sốt mùa hè. Nó cũng có ích cho các bệnh về kinh nguyệt và rối lọa tuần hoàn.



Cỏ thi cũng từng được biết đến như là "" cây trị chứng chảy máu cam" nhờ lá của nó dùng để cầm máu.

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

CÚC ÁO

CÚC ÁO




Tên khoa học: Spilanthes acmella L. Murr


Họ: Cúc ( Asteraceae)

Tên tiếng Việt: hoa cúc áo, ngổ áo, nụ áo lớn, phát khát






Cây cúc áo là một loại cây nhỏ, cao chừng 0.4-0.7m. Lá hình trứng thon dài hoặc hình trứng, mép có răng cưa to hay hơi gợn sóng, phiến lá dài 3-7cm, rộng 1-3cm. 





Cụm hoa hình đầu, mọc ở ngọn thân hay ở nách lá; lá bắc hình bầu dục nhọn đầu; tràng hoa màu vàng; các hoa cái có lưỡi với 3 răng tròn, các hoa ở giữa hình ống. Quả bế dẹp màu nâu nhạt, có 2 răng gai ở ngọn.


Cây cúc áo hiện mọc hoang ở khắp nơi đất ẩm ở nước ta, chưa được trồng. Toàn cây có vị cay tê, cây mọc hoang tê hơn cây trồng. Đặc biệt cụm hoa có vị rất cay, tê nóng, gây chảy nước dãi rất nhiều.


Trong nhân dân, công dụng phổ biến nhất là dùng cụm hoa giã nhỏ, ngâm rượu để ngậm khi bị sâu răng, nhức răng, thuốc sẽ làm đỡ đau, có nơi còn dùng thay thuốc tê để nhổ răng. Có nơi còn dùng lá giã đắp trên mi mắt bị sưng đau.

Nước ép của lá hay nước sắc của lá có thể dùng đắp lên các vết thương, vết loét.


LOA KÈN AMAZON (NGỌC TRÂM)

LOA KÈN AMAZON (NGỌC TRÂM)


Tên khoa học: Eucharis amazonica

Họ: Amaryllidaceae
Tên tiếng Việt: Ngọc trâm, loa kèn Amazon.


Nguồn gốc: Tây Colombiavà miền tây Ecuador và trồng rộng rãi làm cảnh ở các vùng khác










E. grandiflora là một cây lâu năm phát triển từ một củ hình bóng đèn , với những chiếc lá xanh hình tán (cluster). Hoa màu trắng có mùi thơm ngọt ngào trên một thân cây 45-60 cm. 
Trong trồng trọt nó đòi hỏi độ ẩm và nhiệt độ 18-23 ° C (64-73 ° F) để đạt tốc độ tăng trưởng cao.




 THƠ VỀ HOA

HOA NGỌC TRÂM

Anh tặng cho em hoa ngọc trâm 
Hoa như ánh sáng, ngọc như mầm 
Như cài trên tóc hoa trâm ngọc, 
Anh tặng cho em hoa ngọc trâm. 



Lá biếc đơn sơ, cánh nuột nà, 
Rung rinh trên nước một cành hoạ 
Một cành chụm nở hoa hai đóa, 
Ôi cái đêm đầu hợp giữa ta . 



Hoa giúp cho anh tỏ mối tình, 
Vì ta hoa đã nở năm canh ... 
Dịu dàng canh một trăng soi bóng, 
Tha thiết canh năm nguyệt trở mình. 



Từ ấy anh yêu hoa ngọc trâm . 
Những khi vắng vẫn mong thầm. 
Mỗi muà hoa nở trong như tuyết, 
Anh lại tìm thăm hoa ngọc trâm.
                                         Xuân Diệu 


MAI CHIẾU THỦY

MAI CHIẾU THỦY


Tên khoa học: Wrightia religiosa


Họ: Trúc đào (Apocynaceae)


Tên tiếng Việt: Mai chiếu thủymai chấn thủy hay lòng mức miên


Thông điệp:  Mai chiếu thủy mang hàm ý về sự giáo dục con cháu của bề trên



Phong thủy: Cây mai chiếu thủy biểu trưng cho sự bền vững và ổn định của gia chủ





Cây thân gỗ có những nhánh dài mảnh, có lông mềm. Lá hình trái xoan - ngọn giáo, thuôn, hình dải - ngọn giáo, nhọn ở chóp, có góc ở gốc, hai mặt lá khác màu, hầu như không có cuống, dài 3-6,5 cm, rộng 1-2,5 cm. Hoa trắng, mọc thành xim dạng ngù ở ngọn các nhánh. Mỗi hoa cho ra 2 quả đại hình dải, có mũi và nhọn ở đỉnh, thót nhọn ở gốc, hơi rẽ đôi, màu đen đen, có khía dọc, dài 10–12 cm, rộng 3-3,5mm. Hạt hình dải dài 6mm, rộng 1mm mang chùm lông mềm màu trắng.


Mai chiếu thủy có màu trắng, mùi thơm, mọc trên một cọng dài kết thành chùm. Hoa có 5 cánh nhìn thoáng qua giống hoa mai, nên có tên gọi là mai. Hoa mai chiếu thủy nở luôn luôn nhìn xuống mặt đất, nên gọi là chiếu thổ, chiếu thủy.
Mai chiếu thủy có nguồn gốc từ miền Ðông Dương, thường trồng chủ yếu làm cảnh. Ra hoa hầu như quanh năm.

HOA MŨI TÊN


HOA MŨI TÊN

Tên khoa học: Kniphofia
Là tên một chi thực vật

Trong nghề làm vườn, cho tới nay người ta vẫn còn gọi các loài này theo danh pháp lỗi thời là Tritoma Ker Gawl. hay Notosceptrum Benth..

Họ: Lô Hội (hay Tỏi rừng) - Asphodelaceae 

Tên tiếng Anh: Tritoma, Red hot poker (que cời nóng đỏ), Torch lily (loa kèn đuốc), Poker plant (cây que cời)

Tên tiếng Việt: 

Nguồn gốc: Kniphofia là cây bản địa của châu Phi



Kniphofia chủ yếu là cây lưu niên với một vài loài là thường xanh. Chúng có chiều cao trung bình trong khoảng 1-1,5 mét nhưng có một vài loài có thân thấp. Loài cao nhất (Kniphofia thomsonii) có phần thân mang hoa dài tới 3 mét. Các lá của chúng mọc thành một bó hình nơ, từ giữa đâm ra chồi mang hoa. Hoa nhỏ với 6 cánh, mọc thành cụm dạng bông nằm ở phía trên của thân. Bầu nhụy có 3 lá noãn. Quả nang. Chúng chịu được lạnh từ -10 °C tới -15 °C. Nhân giống bằng hạt hay chồi vào mùa xuân.

               

Các loài cây này sinh ra các cụm hoa tươi màu, có màu từ đỏ tới da cam hay vàng. Cụm hoa thường có 2 màu (vàng/đỏ) do khi hoa nở thì cánh hoa có màu vàng nhưng nụ hoa thì lại có màu đỏ. Do các nụ hoa nở dần từ dưới lên trên nên nói chung thấy chúng có hoa màu vàng phía dưới và màu đỏ ở phía trên.


Chi Kniphofia được đặt tên theo Johann Hieronymus Kniphof, một nhà thực vật học và bác sĩ người Đức thế kỷ 18.

Tên gọi phổ biến của chúng trong tiếng Anh là Tritoma, Red hot poker (que cời nóng đỏ), Torch lily (loa kèn đuốc), Poker plant(cây que cời). Một vài diễn đàn trên mạng cho rằng nó có tên gọi tiếng Việt là "hoa mũi tên" nhưng điều này chưa có nguồn chính thức nào kiểm chứng.

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

THÔNG THIÊN

THÔNG THIÊN

Tên khoa học: Thevetia peruviana, 
tên khác là Cascabela thevetia

Tên tiếng Anh: Be still tree


Họ: Trúc đào (Apocynaceae)

Tên tiếng Việt: Hoàng hoa giáp trúc đào, trúc đào hoa vàng, thông thiên, huỳnh liên

Nguồn gốc: Thông thiên có nguồn gốc từ Mexico và một số nước Trung Mỹ.







Thông thiên là cây có lá không rụng của những vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam thấy trồng nhiều ở miền nam Việt Nam, cùng một họ với những cây có mủ trắng độc như cây trúc đào, cây sứ cùi…có một tên thông thường là Laurier jaune hay Oleander jaune.


Thân tiểu mộc nhỏ thẳng và phân nhánh, phát triển với tầm cao khoảng 3 đến 4 m. Cây lưỡng phái, nhánh nhỏ láng nhẵn, vỏ màu xám, tiết ra một chất mủ trắng latex khi bị cắt ngang hay gẫy sau chuyển màu đen. Vì vậy khi cắt các bộ phận của cây, ta thấy vết cắt chóng chuyển màu đen.

Lá thẳng hẹp, hình mũi mác hay hình ngọn giáo, mọc cách, đơn, láng không lông, gần như không cuống, màu xanh tươi, 10 - 15 cm dài x 0,5 – 1,2 cm, không lá bẹ. Mặt dưới lá nổi bật với gân chánh giữa và gân thứ cấp rời rạt, mờ. Cuống lá dài 1-3 mm .

Hoa to, mọc thành xim ở gần ngọn, vành hoa dạng hình phểu hay hình chuông, 5 cm rộng x 7 cm dài, màu vàng tưoi, hồng hay trắng. Hoa đối xứng, xòe tròn ra, hợp lại trong các cụm lá. Vành hoa 5 cánh dính thành ống ở phần dưới, đài hoa màu xanh có tuyến ở đáy, rời. Tiểu nhụy 5, g ắn ở trong ống vành và bao phấn dài khoảng 1,8 mm. Bầu noản thượng, tâm bì rời 2, một vòi nhụy bao quanh bởi đĩa mật.

Quả có nhân cứng tròn hơi vuông, hơi dẹt 3 à 4 cm đường kính, dày chừng 2-2,5cm, hơi chia thành 4 múi, lúc chưa chín có màu xanh bóng, khi chín có màu đen bóng, nhưng dăn lại và rất mềm. Hạch hình ba cạnh rất cứng rắn, màu vàng nhạt bẩn, có khi hơi nâu hay đen nhạt, lắc sẽ thấy tiếng hạt lúc lắc, trong chứa 1 hay 2 hạt, hạt dài khoảng 12mm, rộng 12mm, dày 5mm, màu trắng vàng nhạt, vị rất đắng, hơi có cảm giác tê. Mùa quả từ tháng 10 đến tháng 3.




Toàn thân có nhựa mủ trắng chứa một loạt chất glycoside tim, điển hình là thevetin A và thevetin B, có tác dụng vượng tim và kích thích hệ tiêu hóa như chất neriin trong thân cây trúc đào.

Chính các chất glycoside này sẽ gây độc mạnh cho cơ thể người và động vật khi bị nhiễm liều cao. Những hội chứng phổ biến do nhiễm chứng như: tê cóng, lở loét miệng, buồn nôn và nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy... Những triệu chứng khác cũng thường gặp là buồn ngủ, hôn mê, co giật, loạn nhịp tim. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc tố, đặc biệt hạt có độc tính cao nhất. Nuốt một vài hạt có thể dẫn đến tử vong. Cũng như trúc đào, mủ của thông thiên vấy vào da sẽ gây dị ứng, có thể làm bong rộp da tùy cơ địa từng người, mủ vấy vào mắt sẽ gây tổn thương giác mạc. Ngoài thevetin A và B, trong mủ của thông thiên còn có các glycoside tim khác như: thevetoxin, peruvoside, ruvoside và nerifolin.


Trong y học, người ta thường dùng peruvoside để điều trị chứng suy tim, nhưng với liều lượng rất thấp. Trẻ con thường dễ tiếp cận cây thông thiên ở trong vườn nhà, sân trường hay một nơi nào đó chúng bắt gặp, do sự hấp dẫn của màu hoa vàng rực rỡ và những quả rất bắt mắt.Chỉ cần một hạt có thể giết chết một đứa bé tuổi mẫu giáo.