Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

MỎ VẸT



HOA MỎ VẸT

Tên khoa học: Lotus berthelotii

Họ: Họ Đậu (Fabaceae)


Tên tiếng Việt: hoa mỏ vẹt


Phân bố: quần đảo Canary








Từ năm 1884 loài hoa này được xếp vào những loài thực vật cực hiếm. Chúng được cho là đã tuyệt chủng trong tự nhiên mặc dù một số nhưng vẫn tin chúng vẫn tồn tại một vài cá thể.

Hoa mỏ vẹt có thân bò có hình dáng giống như đuôi thú, với lá chia thành 3-5 thuỳ có kính thước dài 1-2 cm, rộng 1 mm, óng ánh như bạc. Hoa có màu đỏ, từ đỏ đến cam, có hình dạng giống mỏ vẹt, dài 2-4 cm, rộng 5-8 mm.

           

Hoa mỏ vẹt và nhiều loài khác ở đảo Canary được thụ phấn chủ yếu nhờ chim. Nó đã từng được cho rằng các loài thụ phấn ban đầu của loài này (và chi khác như Isoplexis và Canarina ) là chim Sunbirds, đó đã tuyệt chủng trên quần đảo Canary, điều này giải thích lý do tại sao chúng là những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng (Vogel năm 1954;. Vogel et al 1984 ; Valido et al 2004).. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng loài này được thụ phấn đầy đủ bởi những loài chim không thường xuyên "thăm hoa", đặc biệt là Chiffchaff ( Phylloscopus canariensis ), và trong thực tế cho thấy có một số thích nghi cụ thể để được thụ phấn không thường xuyên bởi các loài chim như tuổi thọ hoa được kéo dài.



Tuy nhiên, việc thụ phấn nhân tạo được thực hiện bởi Ollerton không thành công mặc dù có một lượng lớn hạt phấn tiếp xúc với nhuỵ hoa. Điều này có thể do không tương thích kiểu gen cho dù điều này không được biết một cách hoàn chỉnh đối với nhiều loài thực vật, tuy vậy nhưng nó có thể vẫn có ý nghĩa trong việc bảo tồn loài thực vật này nếu bị tuyệt chủng trong tự nhiên.



Hiện nay, hoa mỏ vẹt được nhân giống chủ yếu trong phòng thí nghiệm và được trồng thương mại để làm cảnh, thường được trồng trong chậu, do màu sắc và hình dáng đặc biệt của loài hoa này.


Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

DẠ HƯƠNG

DẠ HƯƠNG

Tên Khoa học: Cestrum noctrurnum Linn

Thuộc họ: họ cà


Tên tiếng Việt: Dạ hương, dạ lý hương, dạ lan hương


Nguồn gốc: Có nguồn gốc từ các nước miền nam châu Mỹ, (Pêru) và được trồng rộng rãi ở nước ta, từ Bắc vào Nam.

Cây bùi dày, gốc hóa gỗ, cành và nhánh vươn dài, sống dựa.  Thường cây được cắt xén đều đặn làm bờ tường, cây hàng rào. Lá đơn, mọc cách, màu xanh nhạt, nhẵn bóng, gốc thuôn dài có cuống ngắn.

Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở đầu cành hay nách lá. Hoa màu vàng lục nhạt, hay lục nhạt, thơm ngát về đêm. Cánh tràng hợp thành ống dài, trên loe thành phễu chia thành năm thùy trái xoan nhọn. Hoa nở vào ban đêm vơi hương thơm dịu dàng nhưng lan toả rất xa.


Quả mọng màu lam hay đen nhạt, hạt dẹt.

Cây rất dễ trồng bằng giâm cành, mọc khỏe đâm ra nhiều chồi và mùa hoa gần như quanh năm. (Ở miền bắc hoa nở chủ yếu vào mùa xuân). Cây được nhân dân ta ưa chuộng vì mọc dày, lá thưa, hoa có hương thơm và không đòi hỏi nhiều về đất trồng


CHUYỆN CỦA HOA

Chuyện này xảy ra đã từ lâu lắm rồi, vào cái thời mà cỏ cây hoa lá mới đang bắt đầu hình thành. Khi mà trái đất vẫn đang ở thời sơ khai nhất. Ở vùng nọ có một ông lão làm vườn, hàng ngày ông chỉ làm vườn đó là công việc mà ông rất yêu thích nên ông làm rất chăm chỉ. Ngày nào cũng vậy từ sáng cho đến tận tối muộn ông vẫn bên những luống hoa chăm sóc cho những cây hoa.


Một lần, trên đường đi, ông nhìn thấy một cây gì gần giống cây hoa hồng bị ai đó nhổ bật gốc, vứt vạ vật bên đường. Cây hoa héo rũ, ông vừa nhấc lên, cánh hoa đã rụng lả tả. Nhìn thấy mầm cây chưa chết hẳn, ông tiếc, mang về nhà. Ông ươm cây hồng dại trong bóng râm, sáng chiều tưới bón, chăm sóc nâng niu . Nhờ vậy mà cây hồng dại nhanh chóng hồi sức và sống lại.

Từ  các nách lá, chồi non nhú ra và chỉ sau chừng mươi hôm sau đã trở thành một cây xanh tốt, tua tủa những chồi non mập mạp. Một thời gian cây đã cho ra những nụ hoa đầu tiên. Với những  bông hoa đẹp lạ lùng tỏa hương thơm nhẹ nhàng.

Ông lão lúc nào cũng bận rộn luôn chân luôn tay, suốt ngày ông bận bịu vì những luống hoa. Ông chăm sóc hoa nhưng đến khi những cây hoa nở hoa thì ông lại không có thời gian rảnh để ngắm những bông hoa này. Hoa có nở đẹp đến mấy, ông cũng chẳng có lúc nào được thanh thản mà thưởng ngoạn.

Cây hồng dại buồn lắm. Chỉ có về khuya ông lão mới được ngả lưng trên chiếc chõng tre kê ở đầu hè, phe phẩy chiếc quạt nan, tay chân được thư giản đôi chút. Những giờ phút nghỉ ngơi hiếm có ấy, ông có thể bình tâm mà ngắm hoa, nhưng khổ nỗi, đêm đen dày đặc, làm sao ông có thể nhận ra vẻ đẹp lạ lùng hiếm có của những bông hồng? Mà đặc điểm của loại hoa hồng dại này là bông rất đẹp, màu sắc rất rực rõ nhưng hương thơm chỉ dìu dịu thoảng qua.


Càng nghĩ cây hồng dại càng thương ông lão. Giá có một phép màu nhỉ? Phép màu đó có thể cho phép cây hồng dại biến thành một loài cây khác có khả năng đem lại niềm vui cho ông lão ngay cả trong đêm tối đen mù mịt. Hoặc là cây đó có những bông hoa phát sáng để ông lão có thể nhìn rõ ràng trong đem tối. Hoặc là cây đó có hương thơm kì diệu để ông lão có thể thưởng thức hương thơm thay vì thưởng thức màu sắc của hoa. Hương thơm sẽ an ủi ông lão, vỗ về ông, đưa ông vào giấc ngủ bình yên,...

Cây hồng dại ngày ngay luôn buồn và luôn có mong ước mình biến thành một loại hoa có hương thơm ngào ngạt vào đêm. Rồi niềm mong ước của cây hoa đã làm bà Chúa hoa cảm động. Bà đã giúp cho mong muốn của cây hoa dại thành hiện thực. Để có được hương thơm nào ngạt cây hoa đáng đổi lấy vẻ đẹp lộng lẫy của mình để trở thành một cây hoa nhỏ bé ít được chú ý đến.

Cây hoa dại chỉ mong có hương thơm ngào ngạt để đem lại niềm vui sự thư giãn cho ông lão. Và rồi kể từ đó xuất hiện một loài hoa mới với tên gọi Dạ Lan Hương.

LAN DẠ HƯƠNG (TIÊN ÔNG)

LAN DẠ HƯƠNG

Tên khoa học: Hyacinthaceae
Họ: Hyacinthaceae
Tên tiếng Việt: lan dạ hương, dạ lan hương, tiên ông
Thông điệp: sự vui chơi


Lan dạ hương (danh pháp khoa học: Hyacinthaceae) là một họ thực vật một lá mầm có hoa. Phần lớn các chi hiện nay nằm trong họ này thì trước đây được đặt trong họ Loa kèn (Liliaceae), nhưng các hệ thống phân loại thực vật gần đây đã tách Hyacinthaceae ra thành một họ riêng trong bộ Măng tây (Asparagales). Các loài trong họ Hyacinthaceae là các loại cây thân thảo sống lâu năm được phát triển từ thân hành và nó bao gồm một số loại cây trồng phổ biến trong vườn như: huệ xạ (chi Muscari), chuông tím (chi Hyacinthoides) và hành biển (chi Scilla).

Dạ lan hương có xuất xứ từ Địa Trung Hải, dáng vẻ tao nhã với những bông hoa hình chuông mọc tiếp nhau, cái này trên cái kia tạo thành 1 hình tháp duyên dáng trên những cuống hoa thanh thoát. Một nhóm các bông hoa dễ thương này, có gần như đầy đủ màu của 7 sắc cầu vồng, là một biểu tượng của huy hoàng và rực rỡ.



Lan dạ hương có củ và lá khá giống hoa loa kèn đỏ, nhưng hoa thì hoàn toàn khác. Chúng nở bung thành chùm lớn với màu sắc rất phong phú như hồng, tím, trắng, cam, vàng, đặc biệt với màu xanh lơ đậm rất hay.












CHUYỆN CỦA HOA




Loài hoa mong manh có hương thơm nồng nàn này hóa thân từ nguồn gốc cái chết của Hyacinthus, 1 vị hoàng tử đẹp trai, người rất được thần Apollo (thần mặt trời) sủng ái. Và chàng đã trở thành nạn nhân trong cuộc ghen tuông dữ dội của Zephur, thần gió tây, người quyết tâm sẽ tiêu diệt chàng. Một hôm, khi Hyacinthus và Apollo đang chơi trò ném vòng, Zephyr đã gom gió thổi thật mạnh vào các vòng sắt do Apollo ném ra, chiếc vòng sắt đã trúng vào ngay thái dương Hyacinthus và làm chàng chết ngay lập tức. Apollo, kẻ giết người vô tội, đã phải trải qua nỗi đau khôn cùng. Vì không thể làm cho hoàng tử Hyacinthus sống lại, Apollo bèn tạo ra 1 bông hoa mang tên hoàng tử, mọc lên từ máu của chàng.



Đây chính là cảm xúc chủ yếu giúp cho các nhà thơ viết nên rất nhiều bài thơ nổi tiếng về hoa Lan dạ hương. Khởi đầu là Homer, người đã ghép cho loài hoa này ý nghĩa "sự vui chơi". Tuy nhiên, không ít người nghĩ rằng, lẽ ra nên có một ý nghĩa khiêm tốn hơn cho 1 loài hoa có xuất xứ đau buồn như vậy. Hoa dạ hương như người con gái mang nhiều tâm sự quá, mà sống gấp gáp quá, vì sợ ngày mai nắng lên thì chẳng ai hiểu mình, nên phải cố mà phô bầy hương sắc. Nhưng sắc thì mỏng manh trong đêm chẳng ai thấy, còn hương thì quá nồng để mà cảm nhận, để mà thấu hiểu.

Dạ lan hương không phải mang ý nghĩa tầm thường như thế. Nó đại diện cho tinh yêu tuổi trẻ. Trong mật mã hoa của Pháp, hoa dạ lan hương ngụ ý: " anh yêu em nhưng đồng thời cũng hủy diệt em."

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

CỬU THẢO ĐỎ

CỬU THẢO ĐỎ

Tên khoa học: Salvia coccinea


Họ: Lamiaceae (Hoa môi)


Tên tiếng Anh: Texas sage, scarlet sage, tropical sage, blood sage


Tên tiếng Việt: hoa xôn, cửu thảo đỏ


Phân bố: Đông Nam Hoa Kỳ , Mexico , Trung Mỹ , vùng Caribbean và miền bắc Nam Mỹ ( Colombia , Peru , và Brazil )










Có một thời gian Brazil được coi là nơi xuất xứ của loài hoa này nhưng sau đó nhờ phát hiện những đặc điểm di truyền nhiễm sắc thể thì nguồn gốc của loài hoa này chính là từ Mexico.



Cửu thảo đỏ là một loài cây thân thảo sống lâu năm. Cây cao khoảng từ 0,6 – 1,2 m với nhiều nhánh. Toàn thân và lá có nhiều lông nhỏ, nhám.


Hoa có nhiều màu sắc và kích thước khác nhau, phổ biến nhất là dạng hình ống màu đỏ tươi. Các giống thường được trồng có màu đỏ cam, hồng, trắng, đỏ... Hoa được thụ phấn nhờ chim ruồi và bướm.

ĐA LỘC

ĐA LỘC

Tên khoa học: Nicolai editor

Họ: Zingiberaceae (Gừng)

Tên tiếng việt: đa lộc, gừng tàu, hoa vạn phúc, sen đất


Album: https://www.facebook.com/media/set/?set=a.444280289095314.1073741856.244315789091766&type=3

     Cây Đa lộc là giống hoa mới, có xuất xứ từ Thái Lan, Indonesia. Ở Thái Lan Đa lộc có tên gọi là “đậu khấu”. Đậu khấu là một loài hoa quí. Thời xa xưa, tại Thái Lan hoa đậu khấu chỉ dành riêng cho các bậc vua chúa, quý tộc, được bày biện ở những nơi sang trọng. Hoa còn được dùng để vẫy chào trong lễ đón các nguyên thủ quốc gia. Hoặc khi đã tặng ai một chú voi, người cỡi voi cũng cầm trên tay hoa Đa lộc biểu hiện sự cao sang.

     Cây Đa lộc được du nhập và trồng đầu tiên tại Chợ Lách - Bến Tre do một nông dân sưu tầm. Hiện nay tại TP.HCM cây được trồng rải rác ở một số quận huyện.

     Cây mọc thành từng bụi, dáng cây giống như họ giềng. Lá dọc song song, bẹ lá to và khoẻ. Cây trưởng thành 4 - 5m.


     Hoa mọc thẳng từ gốc và phát triển theo chiều thẳng đứng, to, cánh hoa cứng, bóng láng, màu đỏ hồng rất đẹp. hình dáng hoa tương tự hoa sen nên ngoài tên gọi Đa Lộc 1 số người còn gọi là “Sen đất”. Hoa Đa lộc không có mùi thơm, thân hoa phát triển theo chiều thẳng đứng, nếu chăm sóc tốt đường kính 1 hoa có thể đạt đến 25 cm. 

     Cây bắt đầu cho hoa khi được từ 7 - 8 tháng tuổi trở đi. Mầm hoa mọc thẳng từ dưới đất lên. Thân hoa có thể đạt chiều cao đến 1,5 m. Cây mẹ cho 2 hoa, mỗi cây con cho 4 - 8 hoa và tiếp tục tăng dần theo cấp số nhân. Vì thế, ở giai đoạn từ 1 - 2 năm tuổi thì 1 bụi hoa Đa lộc sẽ cho từ 20 - 50 bông/năm. Từ 2 - 3 năm tuổi trở đi mỗi năm 1 bụi hoa Đa lộc có thể cho năng suất từ 50 - 200 bông. Ưu điểm của giống hoa này là cây ra hoa liên tục quanh năm, bụi trưởng thành lúc nào cũng ra đầy hoa. Tuy không có hương thơm nhưng hoa Đa lộc lại rất lâu tàn, sau khi thu hoạch có thể giữ từ 5 - 7 ngày.




     Đặc biệt, hoa Đa lộc không làm nước trong bình cắm bị hôi như những loài hoa khác. Hoa Đa lộc có 3 màu: cây thân tím có hoa màu đỏ huyết dụ viền vàng, thân xanh có hoa màu đỏ tươi viền trắng và thân trắng, có hoa màu trắng. Cây Đa lộc thích hợp với đất phù sa và ưa khí hậu nhiệt đới nóng ẩm.

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

DÂY TÓC TIÊN

DÂY TÓC TIÊN

Tên khoa học: Ipomoea quamoclit

Họ: Bìm bìm (Convolvulaceae)


Tên tiếng Anh: cypress vine, cypressvine morning glory, cardinal creeper, cardinal vine, star glory hay hummingbird vine


Tên tiếng Việt: Tóc tiên, hoa sao, dương leo


Nguồn gốc: Vùng nhiệt đới từ phía bắc Nam Mỹ phía bắc đến Mexico

Nó là một loài cây thân thảo hàng năm hoặc lâu năm, dây leo phát triển đến 1-3 m cao. Các lá dài 2-9 cm phân thùy sâu (gần như lông chim), với 9-19 thùy trên mỗi bên của lá. 


Các hoa dài 3-4 cm và 2 cm đường kính, hình loa kèn với năm cánh, và có các màu cơ bản là màu đỏ, màu hồng hoặc màu trắng. Nó hoa vào mùa hè và mùa thu.

ALLIUM MOLY

ALLIUM MOLY

Tên khoa học: Allium moly

Họ: Amaryllidaceae

Tên tiếng Anh: golden garlic and lily leek

Tên tiếng Việt: tỏi vàng, tỏi tây lily

Nguồn gốc: Chủ yếu được tìm thấy ở Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp







Allium moly là loại cây lâu năm và đạt đến tầm cao từ 15 đến 25 cm.

Chúng là loài rụng lá với các lá dài, gân lá song song với nhau. Các lá có kích thước khoảng 10 - 20 cm.

Hoa phát triển thành cụm gồm nhiều bông hoa màu vàng có hình ngôi sao 6 cánh. Mùa ra hoa từ tháng 5 đến tháng 6.

Allium moly được dùng làm cảnh và dược liệu.





Thảo mộc này đã xuất hiện trong những câu chuyện Hy Lạp của Odyssey ở thế giới Muggle, nơi nó được nhân vật chính, Odysseus, sử dụng để giúp chống lại nữ phù thủy hắc ám.



Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

TAI GẤU

TAI GẤU

Tên khoa học: Primula auricula

Họ: Primulaceae

Tên tiếng Anh: auricula, mountain cowslip hay bear's ear

Tên tiếng Việt: tai gấu

Nguồn gốc: trên các dãy núi đá cao ở trung tâm châu Âu, bao gồm cả phía tây dãy Alps , Jura, Vosges, Rừng đen và dãy núi Tatra

Primula auricula là một loài cây thường xanh lâu năm sống ở những vùng núi cao từ 2.000m trở lên với điều kiện thoát nước phải tốt, do đó chúng thường phát triển trên núi đá. 


Nó có kích thước trung bình đạt 20cm chiều cao và lớn khoảng 25 cm bề rộng. 
Lá cây màu xanh nhạt, mọng nước giống với lá bỏng. Tên gọi tai gấu (bear's ear) bắt nguồn từ hình dạng của lá. 


Hoa mọc thành cụm trên một cuống dài, có màu sắc sặc sỡ. Có lúc trên một bông hoa có rất nhiều màu phối hợp rất hài hài hòa. Một điều đặc biệt là hoa có nhiều màu sắc nhưng điểm chung là chứa những nhị vàng óng.

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

CÚC VẠN DIỆP

CÚC VẠN DIỆP


Tên khoa học: Achillea millefolium
Họ: Cúc (Asteraceae)

Tên tiếng Anh: Yarrow

Tên tiếng Việt: cỏ thi, cúc vạn diệp

Nguồn gốc: khu vực Bắc bán cầu ở châu Á , châu Âu và Bắc Mỹ




Cỏ thi là một loài cây thân thảo lâu năm có chiều cao thân từ 0,2-1 mét. Lá dài được chia nhỏ nhiều lần, phân bố đều dọc theo thân cây, với những chiếc lá gần giữa và dưới của thân cây là lớn nhất. Các lá có số lượng lông khác nhau (pubescence). Các lá dài 5-20 cm, sắp xếp thành vòng xoắn trên thân.



Mỗi cụm hoa có nhiều nhánh nhỏ. Mỗi nhánh có từ 15 đến 40 hoa có màu trắng sang hồng. Hoa có mùi hương ngọt ngào mạnh mẽ, tương tự như hoa cúc.



Tên chi Achillea có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Hy Lạp, Achilles , người báo cáo thực hiện nó với quân đội của mình để điều trị vết thương chiến. Ngày xua, nó được biết đén với tên loài dược thảo dùng tròn quân đội, được sử dụng cầm máu những vết thương trong chiến tranh. Từ lâu, nó được xem như là một loại thuốc bổ tăng lực có vị đắng. Cỏ thi giúp hồi phục sau khi bị bệnh cảm lạnh và có ích cho bệnh sốt mùa hè. Nó cũng có ích cho các bệnh về kinh nguyệt và rối lọa tuần hoàn.



Cỏ thi cũng từng được biết đến như là "" cây trị chứng chảy máu cam" nhờ lá của nó dùng để cầm máu.

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

CÚC ÁO

CÚC ÁO




Tên khoa học: Spilanthes acmella L. Murr


Họ: Cúc ( Asteraceae)

Tên tiếng Việt: hoa cúc áo, ngổ áo, nụ áo lớn, phát khát






Cây cúc áo là một loại cây nhỏ, cao chừng 0.4-0.7m. Lá hình trứng thon dài hoặc hình trứng, mép có răng cưa to hay hơi gợn sóng, phiến lá dài 3-7cm, rộng 1-3cm. 





Cụm hoa hình đầu, mọc ở ngọn thân hay ở nách lá; lá bắc hình bầu dục nhọn đầu; tràng hoa màu vàng; các hoa cái có lưỡi với 3 răng tròn, các hoa ở giữa hình ống. Quả bế dẹp màu nâu nhạt, có 2 răng gai ở ngọn.


Cây cúc áo hiện mọc hoang ở khắp nơi đất ẩm ở nước ta, chưa được trồng. Toàn cây có vị cay tê, cây mọc hoang tê hơn cây trồng. Đặc biệt cụm hoa có vị rất cay, tê nóng, gây chảy nước dãi rất nhiều.


Trong nhân dân, công dụng phổ biến nhất là dùng cụm hoa giã nhỏ, ngâm rượu để ngậm khi bị sâu răng, nhức răng, thuốc sẽ làm đỡ đau, có nơi còn dùng thay thuốc tê để nhổ răng. Có nơi còn dùng lá giã đắp trên mi mắt bị sưng đau.

Nước ép của lá hay nước sắc của lá có thể dùng đắp lên các vết thương, vết loét.


LOA KÈN AMAZON (NGỌC TRÂM)

LOA KÈN AMAZON (NGỌC TRÂM)


Tên khoa học: Eucharis amazonica

Họ: Amaryllidaceae
Tên tiếng Việt: Ngọc trâm, loa kèn Amazon.


Nguồn gốc: Tây Colombiavà miền tây Ecuador và trồng rộng rãi làm cảnh ở các vùng khác










E. grandiflora là một cây lâu năm phát triển từ một củ hình bóng đèn , với những chiếc lá xanh hình tán (cluster). Hoa màu trắng có mùi thơm ngọt ngào trên một thân cây 45-60 cm. 
Trong trồng trọt nó đòi hỏi độ ẩm và nhiệt độ 18-23 ° C (64-73 ° F) để đạt tốc độ tăng trưởng cao.




 THƠ VỀ HOA

HOA NGỌC TRÂM

Anh tặng cho em hoa ngọc trâm 
Hoa như ánh sáng, ngọc như mầm 
Như cài trên tóc hoa trâm ngọc, 
Anh tặng cho em hoa ngọc trâm. 



Lá biếc đơn sơ, cánh nuột nà, 
Rung rinh trên nước một cành hoạ 
Một cành chụm nở hoa hai đóa, 
Ôi cái đêm đầu hợp giữa ta . 



Hoa giúp cho anh tỏ mối tình, 
Vì ta hoa đã nở năm canh ... 
Dịu dàng canh một trăng soi bóng, 
Tha thiết canh năm nguyệt trở mình. 



Từ ấy anh yêu hoa ngọc trâm . 
Những khi vắng vẫn mong thầm. 
Mỗi muà hoa nở trong như tuyết, 
Anh lại tìm thăm hoa ngọc trâm.
                                         Xuân Diệu 


MAI CHIẾU THỦY

MAI CHIẾU THỦY


Tên khoa học: Wrightia religiosa


Họ: Trúc đào (Apocynaceae)


Tên tiếng Việt: Mai chiếu thủymai chấn thủy hay lòng mức miên


Thông điệp:  Mai chiếu thủy mang hàm ý về sự giáo dục con cháu của bề trên



Phong thủy: Cây mai chiếu thủy biểu trưng cho sự bền vững và ổn định của gia chủ





Cây thân gỗ có những nhánh dài mảnh, có lông mềm. Lá hình trái xoan - ngọn giáo, thuôn, hình dải - ngọn giáo, nhọn ở chóp, có góc ở gốc, hai mặt lá khác màu, hầu như không có cuống, dài 3-6,5 cm, rộng 1-2,5 cm. Hoa trắng, mọc thành xim dạng ngù ở ngọn các nhánh. Mỗi hoa cho ra 2 quả đại hình dải, có mũi và nhọn ở đỉnh, thót nhọn ở gốc, hơi rẽ đôi, màu đen đen, có khía dọc, dài 10–12 cm, rộng 3-3,5mm. Hạt hình dải dài 6mm, rộng 1mm mang chùm lông mềm màu trắng.


Mai chiếu thủy có màu trắng, mùi thơm, mọc trên một cọng dài kết thành chùm. Hoa có 5 cánh nhìn thoáng qua giống hoa mai, nên có tên gọi là mai. Hoa mai chiếu thủy nở luôn luôn nhìn xuống mặt đất, nên gọi là chiếu thổ, chiếu thủy.
Mai chiếu thủy có nguồn gốc từ miền Ðông Dương, thường trồng chủ yếu làm cảnh. Ra hoa hầu như quanh năm.

HOA MŨI TÊN


HOA MŨI TÊN

Tên khoa học: Kniphofia
Là tên một chi thực vật

Trong nghề làm vườn, cho tới nay người ta vẫn còn gọi các loài này theo danh pháp lỗi thời là Tritoma Ker Gawl. hay Notosceptrum Benth..

Họ: Lô Hội (hay Tỏi rừng) - Asphodelaceae 

Tên tiếng Anh: Tritoma, Red hot poker (que cời nóng đỏ), Torch lily (loa kèn đuốc), Poker plant (cây que cời)

Tên tiếng Việt: 

Nguồn gốc: Kniphofia là cây bản địa của châu Phi



Kniphofia chủ yếu là cây lưu niên với một vài loài là thường xanh. Chúng có chiều cao trung bình trong khoảng 1-1,5 mét nhưng có một vài loài có thân thấp. Loài cao nhất (Kniphofia thomsonii) có phần thân mang hoa dài tới 3 mét. Các lá của chúng mọc thành một bó hình nơ, từ giữa đâm ra chồi mang hoa. Hoa nhỏ với 6 cánh, mọc thành cụm dạng bông nằm ở phía trên của thân. Bầu nhụy có 3 lá noãn. Quả nang. Chúng chịu được lạnh từ -10 °C tới -15 °C. Nhân giống bằng hạt hay chồi vào mùa xuân.

               

Các loài cây này sinh ra các cụm hoa tươi màu, có màu từ đỏ tới da cam hay vàng. Cụm hoa thường có 2 màu (vàng/đỏ) do khi hoa nở thì cánh hoa có màu vàng nhưng nụ hoa thì lại có màu đỏ. Do các nụ hoa nở dần từ dưới lên trên nên nói chung thấy chúng có hoa màu vàng phía dưới và màu đỏ ở phía trên.


Chi Kniphofia được đặt tên theo Johann Hieronymus Kniphof, một nhà thực vật học và bác sĩ người Đức thế kỷ 18.

Tên gọi phổ biến của chúng trong tiếng Anh là Tritoma, Red hot poker (que cời nóng đỏ), Torch lily (loa kèn đuốc), Poker plant(cây que cời). Một vài diễn đàn trên mạng cho rằng nó có tên gọi tiếng Việt là "hoa mũi tên" nhưng điều này chưa có nguồn chính thức nào kiểm chứng.

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

THÔNG THIÊN

THÔNG THIÊN

Tên khoa học: Thevetia peruviana, 
tên khác là Cascabela thevetia

Tên tiếng Anh: Be still tree


Họ: Trúc đào (Apocynaceae)

Tên tiếng Việt: Hoàng hoa giáp trúc đào, trúc đào hoa vàng, thông thiên, huỳnh liên

Nguồn gốc: Thông thiên có nguồn gốc từ Mexico và một số nước Trung Mỹ.







Thông thiên là cây có lá không rụng của những vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam thấy trồng nhiều ở miền nam Việt Nam, cùng một họ với những cây có mủ trắng độc như cây trúc đào, cây sứ cùi…có một tên thông thường là Laurier jaune hay Oleander jaune.


Thân tiểu mộc nhỏ thẳng và phân nhánh, phát triển với tầm cao khoảng 3 đến 4 m. Cây lưỡng phái, nhánh nhỏ láng nhẵn, vỏ màu xám, tiết ra một chất mủ trắng latex khi bị cắt ngang hay gẫy sau chuyển màu đen. Vì vậy khi cắt các bộ phận của cây, ta thấy vết cắt chóng chuyển màu đen.

Lá thẳng hẹp, hình mũi mác hay hình ngọn giáo, mọc cách, đơn, láng không lông, gần như không cuống, màu xanh tươi, 10 - 15 cm dài x 0,5 – 1,2 cm, không lá bẹ. Mặt dưới lá nổi bật với gân chánh giữa và gân thứ cấp rời rạt, mờ. Cuống lá dài 1-3 mm .

Hoa to, mọc thành xim ở gần ngọn, vành hoa dạng hình phểu hay hình chuông, 5 cm rộng x 7 cm dài, màu vàng tưoi, hồng hay trắng. Hoa đối xứng, xòe tròn ra, hợp lại trong các cụm lá. Vành hoa 5 cánh dính thành ống ở phần dưới, đài hoa màu xanh có tuyến ở đáy, rời. Tiểu nhụy 5, g ắn ở trong ống vành và bao phấn dài khoảng 1,8 mm. Bầu noản thượng, tâm bì rời 2, một vòi nhụy bao quanh bởi đĩa mật.

Quả có nhân cứng tròn hơi vuông, hơi dẹt 3 à 4 cm đường kính, dày chừng 2-2,5cm, hơi chia thành 4 múi, lúc chưa chín có màu xanh bóng, khi chín có màu đen bóng, nhưng dăn lại và rất mềm. Hạch hình ba cạnh rất cứng rắn, màu vàng nhạt bẩn, có khi hơi nâu hay đen nhạt, lắc sẽ thấy tiếng hạt lúc lắc, trong chứa 1 hay 2 hạt, hạt dài khoảng 12mm, rộng 12mm, dày 5mm, màu trắng vàng nhạt, vị rất đắng, hơi có cảm giác tê. Mùa quả từ tháng 10 đến tháng 3.




Toàn thân có nhựa mủ trắng chứa một loạt chất glycoside tim, điển hình là thevetin A và thevetin B, có tác dụng vượng tim và kích thích hệ tiêu hóa như chất neriin trong thân cây trúc đào.

Chính các chất glycoside này sẽ gây độc mạnh cho cơ thể người và động vật khi bị nhiễm liều cao. Những hội chứng phổ biến do nhiễm chứng như: tê cóng, lở loét miệng, buồn nôn và nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy... Những triệu chứng khác cũng thường gặp là buồn ngủ, hôn mê, co giật, loạn nhịp tim. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc tố, đặc biệt hạt có độc tính cao nhất. Nuốt một vài hạt có thể dẫn đến tử vong. Cũng như trúc đào, mủ của thông thiên vấy vào da sẽ gây dị ứng, có thể làm bong rộp da tùy cơ địa từng người, mủ vấy vào mắt sẽ gây tổn thương giác mạc. Ngoài thevetin A và B, trong mủ của thông thiên còn có các glycoside tim khác như: thevetoxin, peruvoside, ruvoside và nerifolin.


Trong y học, người ta thường dùng peruvoside để điều trị chứng suy tim, nhưng với liều lượng rất thấp. Trẻ con thường dễ tiếp cận cây thông thiên ở trong vườn nhà, sân trường hay một nơi nào đó chúng bắt gặp, do sự hấp dẫn của màu hoa vàng rực rỡ và những quả rất bắt mắt.Chỉ cần một hạt có thể giết chết một đứa bé tuổi mẫu giáo.