THƯỢC DƯỢC
Là tên của một chi thực vậtTên khoa học: Dahlia, đồng nghĩa: Georgina
Thông điệp: Hoa Thược Dược - Sự tao nhã, lòng tự trọng hoặc là sự tươi thắm và tình yêu
- Thược dược đỏ : Tình yêu của người là hạnh phúc của tôi.
- Thược dược vàng: Trái tim tôi tràn đầy hạnh phúc.
- Thược dược nhiều màu sắc ( panaché ): Tôi chỉ nghĩ về người...
- Thược dược hồng: Nguyện yêu bạn mãi mãi
- Thược dược trắng: Tôi bắt đầu yêu bạn rồi đó
- Thược dược vàng: Trái tim tôi tràn đầy hạnh phúc.
- Thược dược nhiều màu sắc ( panaché ): Tôi chỉ nghĩ về người...
- Thược dược hồng: Nguyện yêu bạn mãi mãi
- Thược dược trắng: Tôi bắt đầu yêu bạn rồi đó
Biểu tượng: Hoa thược dược cũng là loài hoa chính thức của thành phố Seattle, bang Washington.
Là quốc hoa của Mexico
Hoa thược dược có nguồn gốc từ Mexico, được mang vào Tây Ban Nha năm 1789 và đã trang điểm cho vườn hoa của Hoàng gia trong suốt 9 năm, sau đó Tây Ban Nha mới cho phép nó được du nhập vào các nước khác ở Châu Âu. Chính ở các nước này, Thược dược đã khiến cho bao du khách người Anh kinh ngạc vì sự dồi dào về chủng loại và độ lớn của nó. Hoa Thược dược được đặt tên theo tên của Endrew Dahl, một nhà thực vật học người Thụy Điển. Ông đã trao tặng những hoa này cho Lady Holland năm 1804 và Lady Holland cũng chính là người đã gieo trồng thành công loại hoa này tại Anh Quốc.
Thược dược là tên gọi của một chi cây lâu năm thân củ rậm rạp, nở hoa về mùa hè và mùa thu.
Thược dược là loài cây thân rỗng, cao từ 30cm đến 2m. Lá cây mọc đối, có rễ củ phình to, dính chùm chứa chất dự trữ; mỗi củ cho ra một nhánh cây. Rễ lại ăn ngang nên đòi hỏi đất tốt, sâu, màu độ PH trung tính.
Cây thược dược có hai giống hoa đơn và hoa kép.
Giống hoa đơn, còn mang tính chất của tổ tiên chỉ có một vòng cánh, màu sắc cũng đẹp, song từ lâu ít thấy.
Giống hoa kép rất đẹp, nhiều hình dáng và màu sắc. Có giống cánh rối, cánh hoa như bị xé nhỏ, có giống cánh hoa xếp như tổ ong. Có giống màu tím, màu đỏ cờ, đỏ tươi, màu nhung, tiết dê, huyết dụ, màu da cam, màu gạch cua, cánh sen thẫm, cánh sen nhạt, trắng sữa, trắng trong, vàng đậm, vàng hoàng yến...
Hoa thược dược bắt đầu từ tháng 7 đến tận cuối mùa thu, hoa chưa tàn thì các nụ mới đã mọc đầy không ngừng, vì thế người ta coi thược dược là ý nghĩa của sự biết ơn. Hoa nở rực rỡ song rất tiết là không có mùi thơm.
Sự hiện diện của Thược dược đen (thật ra đó là màu đỏ rất đậm) vào năm 1842 đã gây ra bao nhiêu là danh tiếng, đến nỗi Nữ hoàng Anh quốc, Victoria, bà đã coi như Thược dược đen là hoa của "nửa mùa tang" (hoặc còn gọi là mùa tang của vua Albert, phu quân của bà).
Giống hoa kép rất đẹp, nhiều hình dáng và màu sắc. Có giống cánh rối, cánh hoa như bị xé nhỏ, có giống cánh hoa xếp như tổ ong. Có giống màu tím, màu đỏ cờ, đỏ tươi, màu nhung, tiết dê, huyết dụ, màu da cam, màu gạch cua, cánh sen thẫm, cánh sen nhạt, trắng sữa, trắng trong, vàng đậm, vàng hoàng yến...
Hoa thược dược bắt đầu từ tháng 7 đến tận cuối mùa thu, hoa chưa tàn thì các nụ mới đã mọc đầy không ngừng, vì thế người ta coi thược dược là ý nghĩa của sự biết ơn. Hoa nở rực rỡ song rất tiết là không có mùi thơm.
Sự hiện diện của Thược dược đen (thật ra đó là màu đỏ rất đậm) vào năm 1842 đã gây ra bao nhiêu là danh tiếng, đến nỗi Nữ hoàng Anh quốc, Victoria, bà đã coi như Thược dược đen là hoa của "nửa mùa tang" (hoặc còn gọi là mùa tang của vua Albert, phu quân của bà).
CHUYỆN CỦA HOA
Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là "hoa vương", thược dược được coi là "hoa tướng". Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.
Tuy chỉ là "hoa tướng" nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi nó là "mộc thược dược". Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.
Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ này luộc chín phơi khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: "Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?".
Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại chuyện.
Bà nói: "Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức". Hoa Đà bảo: "Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?".
Bà vợ nói: "Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì sao?". Nhưng danh y gạt đi: "Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì còn thử rễ làm gì?". Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: "Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một cây thuốc quýquý".
Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ "dược" thành bạch thược dược.
Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại, nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc, cường tuyến giáp...

THƠ VỀ HOA
Tuy chỉ là "hoa tướng" nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi nó là "mộc thược dược". Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.
Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ này luộc chín phơi khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: "Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?".
Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại chuyện.
Bà nói: "Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức". Hoa Đà bảo: "Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?".
Bà vợ nói: "Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì sao?". Nhưng danh y gạt đi: "Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì còn thử rễ làm gì?". Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: "Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một cây thuốc quýquý".
Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ "dược" thành bạch thược dược.
Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại, nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc, cường tuyến giáp...

THƠ VỀ HOA
Nếu em chẳng hé một lời
Anh cũng đành lấy im lặng nơi em
Mà lấp đầy tim mình
Anh sẽ nín thinh chịu đựng
Như đêm tối có trăng sao canh chừng
Như đêm tối cúi đầu kiên nhẫn
Rồi bình minh thế nào cũng tới
Bóng tối rồi sẽ tan đi
Tiếng em cao vút lên cao
Tiếng em cất thành tiếng suối lóng lánh tỏa khắp trời mấy
Từng lời ân cần em nói vào tổ chim anh gầy nuôi
Tiếng em cất thành ánh nắng rực rỡ vườn cây anh trồng .
Hái bông hoa nhỏ bé này đi
Đừng ngại ngần gì anh ơi
Đừng trù trừ gì anh ơi
Em sợ hoa rụng cánh rơi
Tan vào vũ trụ mất thôi
Trích "Tâm tình hiến dâng" - Tagore
NỤ HÔN CỦA HOA THƯỢC DƯỢC

Nụ hôn của loài hoa thược dược
Những cánh mỏng tênh như câu ước hẹn
Nụ son môi ngọt tựa hồ Thu
Hôn em đi môi thắm non mưa
Thả từng cánh hoa rơi mái hiên mùa lạc gió
Những bông hoa trong khu vườn ngày yêu anh rực rỡ
Thắm mãi lòng em mê say...
Hôn em đi cho em ngất ngây
Gió tạo sóng
Cát tạo nhớ
Mưa tạo mây
Hôn em đi cho mắt em xanh lại
Cho mi ngoan không rớt rơi buồn
Ôm em đi cho linh hồn em bớt cô đơn
Choàng lên vai em chiếc áo khoác mang màu hoa bí ẩn
Mùi hương thơm như mùi mái tóc
Như mùi anh, mùi nhớ, mùi thương...
Giọt sương sớm đọng nhẹ môi hôn
Những cánh hoa rụng như mưa vì niềm vui trong ngày khát cháy
Ta cuốn vào đam mê
Ta say luồng suy nghĩ
Ta xoáy vào nhau như những kẻ si tình
Hôn em đi nụ hôn hoa thược dược
Cho linh hồn em phiêu linh...
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét