Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

OSAKA ĐỎ

OSAKA ĐỎ


n khoa học: Erythrina fusca 
(Tên đồng nghĩa: Erythrina glauca Willd., Erythrina caffra Blanco, Erythrina viarum)

Họ: Fabaceae

Tên tiếng Anh và một số tên gọi khác: Chekring, Coral bean, purple coral-tree, bean purple coral, Swamp Erythrina, Gallito, bois immortelle, bucayo, bucare...

Tên tiếng Việt: Osaka đỏ, vông mào gà, hồng môi, vông nem, hoàng hậu đỏ, đậu san hô đỏ, vông đồng, móng quỷ...

Biểu tượng: Hoa của đậu san hô đỏ được chọn là loài hoa chính thức của bang Trujillo thuộc Venezuela.

Nguồn gốc xuất xứ: Các nước nhiệt đới Châu Á



     Osaka đỏ là loại cây gỗ trung bình, thuộc loại ưa sáng, cao từ 10–20 m, tán rộng, lõi cây có màu vàng sáng đến vàng nâu. Gỗ nhẹ, không bền, ít được sử dụng.

     Lá kép có 3 lá chét dài 8–18 cm, hình bầu dục, lá phụ cuối cùng lớn hơn cả, màu lục bóng nhẵn, rụng vào mùa mưa.

     Hoa chùm, dài trên 20 cm mang nhiều hoa nhỏ có màu đỏ sát nhau. Hoa lớn có 1 cánh cờ dạng trái xoan thuôn rộng, cuộn lại. Nhị hợp lại thành bó dài. Quả dài 25cm màu đen, nhẵn, thắt lại ở hạt. Hạt 5 - 8, hình thận, đỏ hay nâu. Mùa ra hoa: ra hoa quanh năm.



     Cây thích nghi từ vùng nhiệt đới khô cho tới vùng nhiệt đới ẩm. Lượng mưa phù hợp cho phát triển cây dao động từ 1.000 - 4.000 mm, nhiệt độ từ 20-28 °C, độ pH từ 6-8, cây phù hợp với đa số địa hình khác nhau: vùng thấp trũng, ven biển, đầm lầy, vùng đất ngập nước, ven sông v.v. Nói chung nó thích nghi với các điều kiện vùng duyên hải, chịu được cả ngập lụt lẫn điều kiện nước mặn.




     Ở Việt Nam, Indonesia, Singapore, Puerto Rico cây được sử dụng làm cây cảnh quan trên đường phố, công viên. Ở Java, lá non được ăn như một loại rau. Ở Assam và Bengal được trồng để hỗ trợ và bảo vệ cho các vườn nho. Tại một số nơi khác chúng được sử dụng trồng làm cây che bóng và bảo vệ cho các đồn điền cacao, cà phê vì hoa sẽ thu hút các loài chim phá hoại nhưng đồng thời lại giúp cho quá trình thụ phấn của cây được tiến triển tốt hơn.

     Giống như các loài khác trong chi Erythrina, Osaka đỏ có chứa nhiều ancaloit có độc tính, phổ biến nhất là erythralin, thường được dùng trong ngành chế biến dược liệu nhưng gây ngộ độc khi dùng với lượng lớn mặc dù chồi và lá non có thể ăn như rau.

     Theo Hartwell (1967-1971) hạt được sử dụng trong dân gian để chữa bệnh ung thư ở Đông Dương. Một báo cáo khác cho biết cây đậu san hô cũng có dược tính giống như cây Erythrina indica, vỏ cây chữa được bệnh sốt, bệnh gan, sốt rét, thấp khớp, đau răng, rễ đun sôi đắp chữa gãy xương. Ở Malaysia vỏ được đắp để chữa và cầm máu vết thương.




1 nhận xét: