Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

THÔNG THIÊN

THÔNG THIÊN

Tên khoa học: Thevetia peruviana, 
tên khác là Cascabela thevetia

Tên tiếng Anh: Be still tree


Họ: Trúc đào (Apocynaceae)

Tên tiếng Việt: Hoàng hoa giáp trúc đào, trúc đào hoa vàng, thông thiên, huỳnh liên

Nguồn gốc: Thông thiên có nguồn gốc từ Mexico và một số nước Trung Mỹ.







Thông thiên là cây có lá không rụng của những vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam thấy trồng nhiều ở miền nam Việt Nam, cùng một họ với những cây có mủ trắng độc như cây trúc đào, cây sứ cùi…có một tên thông thường là Laurier jaune hay Oleander jaune.


Thân tiểu mộc nhỏ thẳng và phân nhánh, phát triển với tầm cao khoảng 3 đến 4 m. Cây lưỡng phái, nhánh nhỏ láng nhẵn, vỏ màu xám, tiết ra một chất mủ trắng latex khi bị cắt ngang hay gẫy sau chuyển màu đen. Vì vậy khi cắt các bộ phận của cây, ta thấy vết cắt chóng chuyển màu đen.

Lá thẳng hẹp, hình mũi mác hay hình ngọn giáo, mọc cách, đơn, láng không lông, gần như không cuống, màu xanh tươi, 10 - 15 cm dài x 0,5 – 1,2 cm, không lá bẹ. Mặt dưới lá nổi bật với gân chánh giữa và gân thứ cấp rời rạt, mờ. Cuống lá dài 1-3 mm .

Hoa to, mọc thành xim ở gần ngọn, vành hoa dạng hình phểu hay hình chuông, 5 cm rộng x 7 cm dài, màu vàng tưoi, hồng hay trắng. Hoa đối xứng, xòe tròn ra, hợp lại trong các cụm lá. Vành hoa 5 cánh dính thành ống ở phần dưới, đài hoa màu xanh có tuyến ở đáy, rời. Tiểu nhụy 5, g ắn ở trong ống vành và bao phấn dài khoảng 1,8 mm. Bầu noản thượng, tâm bì rời 2, một vòi nhụy bao quanh bởi đĩa mật.

Quả có nhân cứng tròn hơi vuông, hơi dẹt 3 à 4 cm đường kính, dày chừng 2-2,5cm, hơi chia thành 4 múi, lúc chưa chín có màu xanh bóng, khi chín có màu đen bóng, nhưng dăn lại và rất mềm. Hạch hình ba cạnh rất cứng rắn, màu vàng nhạt bẩn, có khi hơi nâu hay đen nhạt, lắc sẽ thấy tiếng hạt lúc lắc, trong chứa 1 hay 2 hạt, hạt dài khoảng 12mm, rộng 12mm, dày 5mm, màu trắng vàng nhạt, vị rất đắng, hơi có cảm giác tê. Mùa quả từ tháng 10 đến tháng 3.




Toàn thân có nhựa mủ trắng chứa một loạt chất glycoside tim, điển hình là thevetin A và thevetin B, có tác dụng vượng tim và kích thích hệ tiêu hóa như chất neriin trong thân cây trúc đào.

Chính các chất glycoside này sẽ gây độc mạnh cho cơ thể người và động vật khi bị nhiễm liều cao. Những hội chứng phổ biến do nhiễm chứng như: tê cóng, lở loét miệng, buồn nôn và nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy... Những triệu chứng khác cũng thường gặp là buồn ngủ, hôn mê, co giật, loạn nhịp tim. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc tố, đặc biệt hạt có độc tính cao nhất. Nuốt một vài hạt có thể dẫn đến tử vong. Cũng như trúc đào, mủ của thông thiên vấy vào da sẽ gây dị ứng, có thể làm bong rộp da tùy cơ địa từng người, mủ vấy vào mắt sẽ gây tổn thương giác mạc. Ngoài thevetin A và B, trong mủ của thông thiên còn có các glycoside tim khác như: thevetoxin, peruvoside, ruvoside và nerifolin.


Trong y học, người ta thường dùng peruvoside để điều trị chứng suy tim, nhưng với liều lượng rất thấp. Trẻ con thường dễ tiếp cận cây thông thiên ở trong vườn nhà, sân trường hay một nơi nào đó chúng bắt gặp, do sự hấp dẫn của màu hoa vàng rực rỡ và những quả rất bắt mắt.Chỉ cần một hạt có thể giết chết một đứa bé tuổi mẫu giáo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét